Loãng xương là bệnh lý của hệ thống xương
làm giảm tỉ trọng khoáng chất của xương kết hợp với sự hư biến cấu trúc của
xương làm cho xương mỏng mảnh và yếu đến mức rất dễ gãy dù bị chấn thương rất
nhẹ, thậm chí có thể gãy tự nhiên. Bệnh thường gặp ở người cao tuổi, nhất là nữ
giới sau mãn kinh và là nguyên nhân dẫn đến gãy xương, tàn phế nếu không biết
cách phòng ngừa.
Vì sao loãng xương?
Loãng xương có thể do tiên phát hoặc
do thứ phát.
Loãng xương tiên phát (týp 1): xuất hiện
từ trên 5 năm sau tuổi mãn kinh, còn gọi là loãng xương sau mãn kinh. Trong
5-10 năm đầu của thời kỳ mãn kinh, tốc độ mất xương có thể lên đến 2-4% khối
lượng xương mỗi năm. Đặc trưng của loãng xương này là sự mất xương chủ yếu ở
xương xốp và thường gây ra gãy lún các đốt sống, gãy đầu dưới xương quay. Trong
loãng xương sau mãn kinh, ngoài thiếu hụt oestrogen người ta còn thấy giảm tiết
hormon cận giáp tăng tiết canxi qua thận, suy giảm hoạt động vitamin D3 dẫn tới giảm hấp thu canxi ở ruột.
Loãng xương tiên phát (týp 2): liên quan
đến tuổi, xuất hiện ở nữ nhiều gấp 2 lần nam, là hậu quả của sự mất xương chậm
trong vòng vài chục năm, biểu hiện chính là gãy cổ xương đùi, gãy lún các đốt
sống do tổn thương xuất hiện đồng đều trên cả xương đặc (vỏ xương) cũng như
xương xốp (bè xương). Loại loãng xương này liên quan tới hai yếu
tố quan trọng là giảm hấp thu canxi, giảm chức năng tạo cốt bào, dẫn tới cường
cận giáp trạng thứ phát.
Loãng xương thứ phát: Được phát hiện ở cả hai giới và thường là hậu quả của một số
bệnh ảnh hưởng tới rối loạn chuyển hóa chất khoáng của xương.
|
Biểu hiện khi bị loãng xương
Đau cột sống: Đau cột
sống lưng hoặc cột sống thắt lưng cấp xảy ra sau 1 tuần và tương ứng với việc
nén xương đột ngột do gắng sức nhẹ, ngã hoặc một động tác sai. Tiếng kêu rắc
khi vận động thường đi kèm với đau, có khi buộc phải nằm nghỉ. Cơn đau cấp tính
liên hệ tới sự nén cột sống kinh diễn, nặng lên khi có một gắng sức do ngồi
hoặc đứng ở tư thế kéo dài, đỡ đau khi nghỉ ngơi.
Biến dạng cột sống: thường nặng và sau nhiều năm mới xảy ra, lưng còng,
xẹp đốt sống, chiều cao giảm dần theo tuổi (sự giảm này có thể bằng hoặc giảm
quá 12cm). Khi sờ có thể thấy các xương sườn ở cuối cùng chạm mào chậu. Đến
giai đoạn này thì sự giảm chiều cao sẽ ngừng lại.
Gãy xương: thường ở phần thấp cẳng tay, cổ xương đùi, cổ xương
cánh tay, xương sườn và cột sống. Thấy rất đau cột sống và mất đi sau nghỉ ngơi
4-6 tuần, không gây ra ép tủy; gãy xương đùi có thể nguy hiểm cho người bệnh vì
các biến chứng do nằm lâu ảnh hưởng tới vận động trong tương lai; Nén đốt sống
thường xảy ra ở tuổi 55-70, còn gãy cổ xương đùi thường xảy ra muộn hơn; gãy xương
chậu cũng thường xảy ra.
Điều trị và phòng bệnh
Điều trị bệnh loãng xương bao gồm
những biện pháp như: thuốc chống đau giãn cơ, vận động thể dục thể chất phù hợp
(đặc biệt duy trì trọng lượng cơ thể, tập lưng thẳng, tập bụng). Đề phòng té
ngã khi đi đứng, chế độ ăn hợp lý, sử dụng thuốc điều trị thích hợp.
Chúng ta cũng biết rằng, cùng với
tuổi tác, canxi cũng giảm từ từ một cách không tránh được, từ 20-80 tuổi khối
lượng xương mất theo tuyến tính khoảng 30%. Ở phụ nữ nặng hơn vì thêm rối loạn
sau mãn kinh, tỷ lệ có thể tới 40% ở tuổi 80. Để phòng bệnh hiệu quả nên:
-Chế độ ăn uống đầy đủ chất:
Protein, vitamin, canxi,...
- Hạn chế sử dụng những thực phẩm
chế biến sẵn, đồ ăn nhanh, nước ngọt, đồ uống có ga,…
- Không sử dụng chất kích thích:
Rượu bia, thuốc lá,…
- Thường xuyên tập luyện những môn
thể dục thể thao nhẹ nhàng như đi bộ, không nên mang vác vật nặng, thay đổi tư
thế đột ngột,…
- Nên uống bổ sung canxi theo đợt
hằng năm để giúp xương chắc khỏe, phòng ngừa loãng xương.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét